Trạng nguyên Vũ Duệ (1468-1522) là bậc danh thần tiết nghĩa, cũng là nhà thơ có tiếng đời Lê. Trong sử sách cũng như giai thoại dân gian còn lưu lại những câu chuyện về ông.
Ông tên thật là Vũ Nghĩa Chi. Ông là người làng Trình Xá, huyện Sơn Vi, trấn Sơn Tây (nay thuộc làng Trình Xá, xã Vĩnh Lại, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Dân gian lưu truyền, Vũ Nghĩa Chi nhà nghèo, từ nhỏ đã phải làm lụng vất vả để đỡ đần cha mẹ, nhưng lại nổi tiếng thông minh. Ông 7 tuổi đã đọc thông, viết thạo, biết làm thơ. Người đương thời gọi ông là “Thất Tuế Thần Đồng”.
Vũ Duệ gỡ nợ cho cha mẹ
Cậu bé họ Vũ rất láu lỉnh. Có lần, cha mẹ đi vắng, một người cùng làng đến đòi nợ và hỏi: “Bố mẹ cháu đâu?”.
Nghĩa Chi đáp: “Bố cháu đi trừ cây sống, trồng cây cʜết. Mẹ cháu đi bán gió, mua que”.
Người kia thấy lạ, suy nghĩ mãi không hiểu cha mẹ cậu bé đi đâu, gặng hỏi mà Nghĩa Chi cũng không trả lời. Cuối cùng, ông ta dỗ dành, hứa xóa nợ cho gia đình nếu Nghĩa Chi nói đáp án.
Thần đồng lém lỉnh yêu cầu chủ nợ ấn tay lên cục đất dẻo làm tin rồi bèn giải: Cha cậu đi nhổ mạ để cấy còn mẹ đi bán quạt!
Hôm sau, người kia đến lúc cha mẹ Nghĩa Chi đang ở nhà. Cậu bé đưa cục đất có in dấu tay chủ nợ và yêu cầu ông thực hiện lời hứa. Ông ta chấp nhận xóa nợ, hy vọng cha mẹ Nghĩa Chi dùng tiền đó mua sách cho cậu đi học.
Tấm lòng hiếu học của Vũ Duệ
Theo Kho tàng về các ông trạng Việt Nam: Truyện và giai thoại của Vũ Ngọc Khanh, Vũ Duệ vì nhà nghèo nên không được đi học. Hàng ngày, cậu phải trông em để cha mẹ đi làm đồng. Tuy nhiên, hoàn cảnh khó khăn không làm sờn ý chí của Nghĩa Chi, cậu tận dụng mọi cách để học tập tri thức như đi học lỏm, dùng đom đóm làm đèn đọc sách, lấy sân đình và gạch non thay bút giấy mà tập viết.
Gần nhà có một ông thầy đồ mở lớp học. Sáng nào Nghĩa Chi cũng cõng em đứng ngoài hiên, chăm chú nghe bài giảng.
Sau gần một năm, cậu bé vẫn rất mực chuyên cần, ngày ngày tới lớp “học lỏm”. Một hôm, thầy đồ nảy ra ý muốn thử tài Nghĩa Chi, nếu cậu thực sự thông minh, thầy sẽ tìm cách giúp đỡ về đường học vấn.
Thầy đồ đặt ra câu hỏi rất hóc búa, cả lớp đều lắc đầu không ai trả lời được. Bấy giờ, thầy mới nhìn về cậu bé đứng ngoài hiên, hỏi liệu có thể trả lời không.
Câu trả lời của cậu học trò nghèo khiến thầy rất hài lòng, các trò trong lớp cũng thán phục. Sau khi biết tên cậu là Nghĩa Chi, ông đề nghị đổi sang Duệ, tỏ ý khen ngợi tài năng.
Từ đó, Vũ Nghĩa Chi lấy tên là Vũ Duệ và trở thành học trò chính thức của thầy đồ. Ông rất thông minh, chỉ cần đọc sách một lần đã nhớ.
Sau đó, vào khoa thi năm Canh Tuất 1490 (dưới thời vua Lê Thánh Tông) đã đỗ đầu Đệ nhất giáp, được vua ban danh hiệu Trạng Nguyên kèm lời tiên tri được chép vào chính sử “Sau này quốc gia có biến cố tất phải trông cậy vào người này”. Năm đó ông mới 22 tuổi.
Vị quan trung nghĩa
Sau khi đỗ Trạng nguyên được triều đình bổ nhiệm chức Tham chính xứ Hải Dương, dần dần cất nhắc lên nhiều chức vụ quan trọng khác.
Vũ Duệ tính cương trực, thẳng thắn, vua Lê rất tin dùng, các quan đồng triều ai cũng kính nể. Trong hơn 30 năm làm quan của mình, Ông đã phục vụ hơn 6 đời vua nhà Lê: Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông.
Khi Mạc Đăng Dung thao túng triều đình, lập bè kết đảng, có ý nhòm ngó ngôi vua, nhiều kẻ xu nịnh vội ngả theo mong có được địa vị, bổng lộc lớn; riêng Vũ Duệ vẫn giữ khí tiết của kẻ sĩ, quyết trung thành với với vua Lê Chiêu Tông.
Bấy giờ vua Lê Chiêu Tông lo sợ thế lực của họ Mạc nên đến tháng 7 năm Nhâm Ngọ (1522) bí mật thoát khỏi Thăng Long chạy vào Thanh Hóa. Ông cùng một số người theo hộ giá nhưng không kịp. Đến cửa biển Thần Phù không tìm được vua, ông treo ấn Ngự sử vào cổ, quay mặt về Lam Kinh bái lạy lăng miếu các vua Lê rồi nhảy xuống biển tự tử để tỏ lòng trung nghĩa.
Sau này, tiến sĩ Hà Nhiệm Đại triều Mạc đã làm vịnh ca ngợi ông:
Tuổi trẻ đỗ đầu các khoá thi
Danh nho sự nghiệp thật là kỳ
Trung, trinh Thiếu Bảo lòng như thép
Không phụ Thuần Hoàng đoán tự xưa.
Sau khi dẹp xong nhà Mạc, năm Bính Ngọ (1666) đời vua Lê Huyền Tông, triều đình bàn luận công lao, xếp ông đứng đầu trong số 13 người công thần tử tiết. Sau đó, di cốt ông được đem từ Thanh Hóa về quê hương Trình Xá mai táng.
Tác giả Ngọc Mai (tổng hợp)