Sở hữu nhan sắc lộng lẫy như tiên nữ giáng trần, nhưng Thanh Thúy lại khiến người ta phải bất ngờ trước tiếng hát độc lạ bậc nhất của mình.
Vào cuối thập niên 50, đầu thập niên 60, có một giai nhân đẹp tuyệt trần xuất hiện giữa làng nhạc và vụt sáng thành hiện tượng độc đáo bậc nhất.
Không màu mè, cầu kì, chỉ bằng tiếng hát và nhan sắc trời phú, người ca sĩ ấy đã chiếm trọn trái tim khán giả và khiến biết bao nhạc sĩ tài hoa phải si mê mình.
Đó chính là Thanh Thúy – người được mệnh danh là “Nữ hoàng của thể điệu Bolero, Rumba, Slow” hay “Hoa hậu nghệ sĩ”. Cô sở hữu nhân cách sáng lòa như Hồ Trường An từng viết:
“Thanh Thúy là nghệ sĩ có tư cách, có phẩm hạnh. Cô không gây ngộ nhận nào cho nhóm ký giả ưa săn tin giật gân…
Trong hàng ngũ các nữ ca sĩ nổi tiếng thuở xa xưa chỉ có Lệ Thanh, Thanh Thúy và Hoàng Oanh là nhu mì, khiêm tốn, ngoan hiền và biết tự trọng.
Ở chót vót đỉnh danh vọng mà cô không hề nói một lời kiêu căng hay một lời làm thương tổn tha nhân, không hề bôi bẩn kẻ vắng mặt, không khoe khoang thành tích của mình khi tiếp xúc với báo chí”.
Không chỉ giới hạn trong Bolero, kể từ khi xuất hiện, Thanh Thúy đã gây được nhiều tiếng vang nhất trong làng nhạc Việt trước năm 1975 và ngự trị trên các làn sóng phát thanh, cũng như truyền hình tại miền Nam.
Cô nhanh chóng trở thành ngôi sao lớn trên các sân khấu đại nhạc hội cũng như phòng trà, với lượng đĩa bán ra vượt trội.
Trong ba năm liền (1972-1974), theo cuộc trưng cầu ý kiến đọc giả của nhật báo Trắng Đen, Thanh Thúy được bình chọn là nữ ca sĩ ăn khách nhất.
Cô cũng là người nhận được nhiều mỹ từ do giới văn nghệ sĩ và báo chí phong tặng nhất như: Tiếng hát liêu trai, Tiếng hát khói sương, Tiếng hát lúc không giờ, Tiếng sầu ru khuya, Tiếng hát lên trời, Tiếng hát khói sương chiêu niệm…
Bằng sức cuốn hút kì lạ của mình, Thanh Thúy trở thành ca sĩ Bolero được đi vào ngòi bút của nhiều thi nhân, văn sĩ nhất, đúng như lời tác giả Hoàng Bích Yên từng nói:
“Trong kiếp cầm ca, tiếng hát Thanh Thúy được nhiều cây bút tên tuổi xuất thủ với ngôn từ độc đáo, tuyệt vời được dàn trải ra, bồng bềnh theo hình bóng qua bốn thập niên của hậu bán thế kỷ 20, tiếng hát đó đã gói trọn tình khúc vượt thời gian và không gian, đi vào ký ức, đi vào chiều dài lịch sử trong làng ca nhạc Việt Nam”.
Nhạc sĩ Nguyên Sa cũng chia sẻ: “Thanh Thúy là nữ ca sĩ được ngợi ca nhiều nhất trong văn, trong thơ. Thi sĩ Hoàng Trúc Ly, nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Viên Linh, nhà văn Tuấn Huy….
Bởi vì Thanh Thúy chính là người yêu trong mộng của cả một thế hệ, trong đó có những nhà văn, nhà thơ bén nhạy bắt được cảm xúc riêng tư mà diễn đạt cái khách quan mênh mông trong cái chủ quan, riêng lẽ sống thực và chân thành…”.
Và Thanh Thúy chính là người tình trong mộng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từ thời trai trẻ. Vị nhạc sĩ tài hoa này đã từng si mê cô như điếu đổ và viết tặng cô những hai ca khúc nổi tiếng là Ướt mi, Thương một người.
Đây là cả một câu chuyện tình dài và lãng mạn.
Tiếng hát lưỡng tính độc nhất vô nhị không ai có
Ở châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, nữ trầm (contralto) là loại giọng cực kì hiếm gặp. Nó ít xuất hiện hơn rất nhiều so với nữ trung (mezzo soprano) và nữ cao (soprano).
Các giọng nữ có âm vực trầm và âm sắc hơi tối như Khánh Ly, Bảo Yến, Thu Phương, Hoàng Quyên, Ngọc Anh, Thanh Lam, Uyên Linh, Hồ Ngọc Hà… thường bị nhầm là nữ trầm. Nhưng thực chất, họ vẫn là nữ trung.
Ca sĩ Bảo Yến còn cho rằng: “Tôi chưa thấy một nữ trầm nào ở Việt Nam“.
Theo định nghĩa trong nhạc cổ điển, giọng nữ trầm được tạo bởi contre (trầm) và alto (cao) – do trước đây alto là thiếu niên nam hoặc castrato. Đây là giọng nữ trầm nhất, hát chủ yếu bằng giọng ngực. Giọng dày, trầm, khoẻ.
Đặc điểm của một nữ trầm gồm:
– Màu giọng rất dày, có độ sâu, nặng và tối (hơn nữ trung).
– Hát với man tone và có tính lưỡng tính (hermaphrodite), tức là có thể hát như một giọng nam cao.
– Tessitura (quãng hát thoải mái) nằm trên âm khu trầm và trung trầm.
Trong đó, tính lưỡng tính là tiêu chuẩn lớn cho một nữ trầm.
Xét theo các điều kiện trên, Thanh Thúy là nữ ca sĩ duy nhất ở Việt Nam từ trước đến nay sở hữu giọng nữ trầm.
Không giống với tất cả các nữ ca sĩ khác, âm vực của Thanh Thúy mở rộng xuống rất thấp. Cô có thể hát thoải mái, nhả chữ ở C3, C#3 và xuống tận A2, B2, ngang với âm vực của một giọng nam.
Các giọng nữ khác ở Việt Nam thường chỉ xuống tới E3. Nếu may mắn lắm xuống được C3 thì cũng gắng gượng, hạ thanh quản và bị mờ đi. Họ không thể nhả chữ một cách tự nhiên, với sự chắc chắn và độ dày lớn như Thanh Thúy.
Với quãng âm bẩm sinh này, Thanh Thúy có thể hát được cả bài trên quãng 3 và nhả chữ liên tục ở C3, C#3, D3 một cách thoải mái. Trong khi đó, các giọng nữ khác thường chỉ xuống tới E3, F3 đôi lần trong toàn bài hát để tạo điểm nhấn chứ khó lòng “cầm cự” được lâu như Thanh Thúy.
Điều này cũng khó khăn như việc phải hát quãng 5 toàn bài như So Hyang hay Rachelle Ferrell vậy.
Khi xuống thấp, giọng Thanh Thúy rất nam tính, giống như Toni Braxton hay Cher, Moon Joo Ran. Đặc tính này được gọi là tính lưỡng tính (hermaphrodite). Các giọng nữ khác ở Việt Nam hầu như không có tính chất này.
Xét theo ngũ cung, giọng contralto thường mang âm sắc thổ, nhưng Thanh Thúy lại là là thổ pha kim. Bởi thế, giọng hát của cô hội tụ đủ những tinh hoa độc đáo như:
– Âm lượng trong giọng hát Thanh Thúy khá lớn, âm thanh trầm ấm và rền rĩ như tiếng đại hồng chung ở các chùa chiền. Đa số các giọng nữ khi hát trầm sẽ bị nhỏ đi, nhưng Thanh Thúy vẫn giữ được nguồn âm lượng đầy đặn, giống như từng hồi trống đập vào không gian.
Trong quãng âm từ F3 tới A4, Thanh Thúy sử dụng thuần chest voice (giọng ngực) với nội lực mạnh mẽ, tạo ra khoảng âm lượng lớn, chắc chắn như sấm rền.
Do quy định riêng của thể điệu Bolero nên Thanh Thúy chưa bao giờ bung giọng hết sức theo lối phô diễn như các diva, vocalist ngày nay. Bởi vậy, công chúng không thể biết hết tiềm lực của cô.
Tuy nhiên, khi nghe các bản thu mộc trước 1975, khán giả có thể nhận thấy rõ lực âm mạnh đập vào mic thu phát ra từ giọng Thanh Thúy mỗi lần cô nhả chữ hay nhấn chữ. Chỉ những giọng hát có âm lượng lớn bẩm sinh mới làm được điều này.
Nhiều người cho rằng, nếu Thanh Thúy được đào tạo bài bản về thanh nhạc và hát theo lối cộng minh quãng trung như Thanh Lam, cô sẽ hóa thành tiếng hát khổng lồ, giống như Shirley Bassey phiên bản Việt Nam vậy.
– Âm sắc giọng Thanh Thúy khá dày, tối, nặng. Đây là đặc trưng không thể thiếu của giọng contralto. Trong đó, màu tối tạo nên chất liêu trai, ma mị – cái mà ai cũng phải nhấn mạnh khi nhắc về Thanh Thúy.
Nó làm nên điệu hồn riêng có của cô khi hát Bolero, vô cùng ấn tượng và độc lạ. Đúng như lời nhà thơ Vũ Hối từng miêu tả về tiếng hát Thanh Thúy qua 4 câu thơ tựa tranh vẽ:
Liêu trai tiếng hát khói sương
Nghẹn ngào nhung nhớ giòng Hương quê mình
Nghiên sầu từng nét lung linh
Giọng vàng xứ Huế ấm tình quê hương.
Sức nặng giúp giọng Thanh Thúy có độ đầm, chắc như sắt thép và vững như núi tảng. Tiếng hát này tạo cho người nghe cảm giác như được đắm chìm cả cơ thể vào đất mẹ. Đó là tiếng hát mang màu nâu đậm của ngọc cẩm thạch, rắn chắc đến từng âm từng chữ được hát ra, như một bức tường thành.
Rất nhiều khán giả từng ước ao được nghe Thanh Thúy hát những khúc sử thi mang âm hưởng hùng tráng, với độ rền và trường độ lớn. Nhưng thật đáng tiếc, tâm hồn và thẩm mỹ âm nhạc của cô đã gửi trọn ở Bolero.
– Khác với nhiều giọng contralto khác, âm sắc kim giúp giọng Thanh Thúy trở nên vang sang sảng, nổi. Dù không có sự bay bổng, nhưng tiếng hát này vẫn có khả năng bật xa trong không gian và có màu sáng hơn khi hát ở quãng trung, cận cao, chứ không hoàn toàn tối hẳn hay nặng tính hermaphrodite (tính lưỡng tính).
Nhờ đó, giọng Thanh Thúy trở nên mềm mại và nữ tính hơn ở một số đoạn hát trữ tình, giúp cô hát nức nở và mùi mẫn đúng điêu Bolero, chứ không quá thô ráp, cứng rắn. Cũng vì thế mà nhiều người vẫn nghĩ cô là một nữ trung trầm (mezzo alto), chứ không phải nữ trầm thực thụ.
Tất cả những tinh hoa độc đáo trên hội tụ lại đã tạo thành tiếng hát Thanh Thúy có một không hai trong làng nhạc Việt Nam, khiến ai ai cũng phải ấn tượng. Rất nhiều học giả từng ngợi ca về giọng hát đặc biệt của Thanh Thúy.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung chia sẻ: “Đứng trước Thanh Thúy, nghe Thanh Thúy hát những bài buồn buồn bằng một giọng trầm, với những nét mặt xa vắng, khán giả cảm thấy như bị lôi kéo về một dĩ vãng xa xôi nhưng cũng rất gần gũi quen thuộc, một dĩ vãng dệt những hình ảnh rung động, cảm nghĩ gắn liền với lịch sử đất nước, với thôn quê đồng ruộng, với sông Hương, núi Ngự, tiêu biểu cho những gì là dân tộc, cá tính địa phương về mặt tiêu cực: một nỗi buồn man mác, cô tịch, trầm lặng, vô định…“.
Mỹ nhân tuyệt sắc, giọng hát kỳ lạ khiến mọi trái tim phải si mê
Thanh Thúy sở hữu nhân cách sáng lòa, phẩm hạnh cao đẹp. Với bản tính “nhu mì, khiêm tốn, ngoan hiền và biết tự trọng”, Thanh Thúy ít khi bon chen vào con đường danh vọng hay tranh đua với đồng nghiệp.
Thế nhưng, nhờ tài năng độc đáo, nhan sắc tuyệt trần và sự kì vĩ có một không hai của mình, cô đã sớm trở thành Danh ca Bolero nổi tiếng nhất. Không những vậy, cô còn đạt tới tầm phủ sóng lớn nhất của một đại ngôi sao.
Đương thời, Thanh Thúy là ca sĩ được phong tặng nhiều danh hiệu nhất và đi vào văn thơ nhiều nhất. Cô cũng là mỹ nhân khiến đàn ông phải si mê nhiều nhất. Trong đó, có hàng loạt nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ lớn.
Nhạc sĩ Nguyên Sa từng chia sẻ: “Thanh Thúy là nữ ca sĩ được ngợi ca nhiều nhất trong văn, trong thơ như thi sĩ Hoàng Trúc Ly, nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Viên Linh, nhà văn Tuấn Huy….
Bởi vì Thanh Thúy chính là người yêu trong mộng của cả một thế hệ, trong đó có những nhà văn, nhà thơ bén nhạy bắt được cảm xúc riêng tư mà diễn đạt cái khách quan mênh mông trong cái chủ quan, riêng lẽ sống thực và chân thành…”.
Kĩ thuật độc đáo của tiếng hát lưỡng tính duy nhất
Như đã nói, Thanh Thúy là giọng nữ trầm (contralto) duy nhất ở Việt Nam từ trước tới nay, với các đặc trưng hiếm có như: tính lưỡng tính (hermaphrodite), hát được với man tone; giọng rất sâu, dày, nặng, tối, chắc khỏe, đậm tính thổ (đất) và rền như tiếng đại hồng chung; quãng hát thoải mái (tessitura) nằm trên âm khu trung, trầm.
Chất giọng này khác biệt hoàn toàn với những nữ trung trầm (mezzo alto) khác như Thanh Lam, Uyên Linh, Thu Phương, Khánh Ly, Hoàng Quyên, Hồ Ngọc Hà, Ngọc Anh…
Chính vì thế, cách hát và kĩ thuật được Thanh Thúy sử dụng cũng rất đặc trưng, riêng có, không giống với bất kì nữ ca sĩ nào.
Trong khi hầu hết các nữ ca sĩ Bolero khác thường hát bằng giả thanh, nasal voice (giọng mũi) thì Thanh Thúy chủ yếu hát bằng giọng ngực (chest voice). Thậm chí, nếu có hát pha thì tỷ lệ giọng ngực của cô vẫn rất cao (chesty).
Đây là thế mạnh riêng của giọng nữ trầm. Họ có thể hát thuần chest mà không sợ hại thanh quản, mất giọng như nữ cao và nữ trung. Không những vậy, khi hát bằng chest voice thuần, họ phát huy được âm sắc tự nhiên trong giọng hát của mình.
Thanh Thúy cũng vậy, nhờ hát thuần chest nên cô đẩy mạnh tối đa chất thổ (đất) trong giọng hát của mình, khiến nó trở nên tối, nặng, sâu thẳm và ma mị, liêu trai hơn bao giờ hết.
Nghe Thanh Thúy hát, người ta có cảm giác như đang nghe một thứ âm thanh huyền bí nào đó phát ra từ lòng đất, ôm trọn núi rừng, non nước của cả một thời chiến tranh, lửa đạn, với biết bao xương máu, ai oán, khóc than.
Cũng nhờ cách hát thuần chest này mà Thanh Thúy có thể giãi bày ca khúc một cách chậm rãi, đậm chất tự sự, như kể một câu chuyện hay tâm tình chân thành với người nghe.
Đây là điều khác hoàn toàn với đa số nữ ca sĩ Bolero ngày nay, vốn chỉ luyến láy, đong đưa theo giai điệu cho đẹp mà không diễn đạt được phần hồn sâu thẳm cùng những ẩn ức bên trong bài hát.
Thanh Thúy nhả chữ nào chắc chữ đó, nặng như chì và rền như sấm. Trong từng chữ đều in hằn sức nặng của thời gian, da thịt loài người. Cô chẳng cần phải nhấn nhá nhiều vì bản thân cách hát tự sự, chậm rãi này đã nhấn vào mọi chữ rồi.
Tiếng hát Thanh Thúy giống như tiếng lòng của đất mẹ, lúc nào cũng cuồn cuộn sóng ngầm trong tầng sâu thăm thẳm, chất chứa nhiều nỗi tâm sự ở tầm vóc thời đại. Có thể nói, đây là tiếng hát âm tính nhất trong các giọng nữ tại Việt Nam, khi nó vừa tối, vừa trầm, nhưng cũng không kém phần nữ tính.
Bằng việc hát thuần chest và phát huy lợi thế của giọng nữ trầm, Thanh Thúy có thể xuống được những note rất thấp như D3, C3 một cách thoải mái và thường xuyên. Cô hát quãng 3 dễ dàng như hát quãng 4 và có thể hát toàn bài trên quãng 3.
Không những vậy, Thanh Thúy còn có thể nhả chữ xuống hẳn B2, A2 theo đúng giai điệu, hòa âm mà không cần hạ thanh quản hay dùng tới vocal fry. Trong khi với nhiều nữ ca sĩ khác, để xuống được quãng 2 đã là không thể, chứ đừng nói tới việc nhả chữ một cách mượt mà.
Kỉ lục xuống thấp của Thanh Thúy là tới A2 trong màn trình diễn Hai chuyến tàu đêm. Ngoài Minh Hiếu, chưa thấy nữ ca sĩ nào tại Việt Nam có thể xuống tới note này.
Nhưng đáng nể hơn cả, note A2 đó được Thanh Thúy phát âm trên câu từ rất rõ chữ, đẹp và tự nhiên. Cô không phải lấy đà từ trước, cố ngân ra hay gồng mình để giữ lấy note. Để hát thấp như vậy trên tiết tấu nhanh mà không bị mờ hay chênh phô là cả một kì tích.
Với một giọng nữ trung hoặc nữ cao thông thường, nếu muốn belt giọng (cách hát toàn giọng với nhiều lực ở giọng ngực và giọng pha), họ sẽ phải đẩy lên quãng 4, quãng 5. Nếu hát thấp hơn, vị trí âm thanh sẽ bị đẩy xuống dưới và xuất hiện nhiều nếp gấp thanh quản, không thể giữ đủ lực, breath control để belt.
Các giọng nữ thường phải kéo tới G#4 trở lên mới có sức bật và khuếch đại âm lượng lớn, còn ở G#3 sẽ bị nhỏ lại hoặc dính âm hơi (airy voice).
Thanh Thúy thì hoàn toàn ngược lại. Cô có thể belt giọng dưới tận G3, G#3 với âm lượng lớn và độ bật cao, như tiếng đại hồng chung rền rĩ tỏa đi xa. Khi belt G3, Thanh Thúy có thể di chuyển vị trí âm thanh lên trên mà vẫn giữ nguyên cao độ, không thay đổi, không đẩy note lên cao hơn.
Thanh Thúy belt G3 mà cảm tưởng như đang hát G4. Điều này cho thấy, phần giọng ngực của Thanh Thúy rất khỏe và có vị trí âm thanh đặc biệt.
Vì là nữ trầm nên quãng cao của Thanh Thúy bị hạn chế. Cô lên cao nhất tới B4 (cho giọng thật) và hầu như không sử dụng mixed voice. Quãng belt thuận lợi của cô nằm ờ C4 tới G4, thấp hơn các giọng nữ khác khá nhiều.
Tuy nhiên, trong quãng belt này, giọng Thanh Thúy biến hóa rất ảo diệu, lúc nghe rất trầm, lúc lại lanh lảnh và tạo cho người nghe cảm giác cao vun vút, dù cao độ vẫn như vậy.
Để làm được điều này, Thanh Thúy đã phải luân chuyển linh hoạt giữa việc sử dụng full voice và messa voce (hát nửa giọng), rồi vắt treo lên theo tone nhạc, tạo hiệu ứng lúc dày lúc mảnh, lúc sáng lúc tối. Cô chuyển giọng liên tục trong một bài hát, từ trầm tới cao hơn rồi đổ lại đổ về trầm.
Thậm chí, ngay trên quãng trầm, Thanh Thúy cũng tạo được nhiều hiệu ứng, sắc thái khác nhau. Chẳng hạn, cùng ở note D3, nhưng Thanh Thúy có thể hát lúc nặng lúc nhẹ, lúc airy đậm chất xốp.
Đây là một trong những khả năng đặc biệt ở danh ca này, đúng như nhà văn Hồ Trường An từng nói: “Cô là một nhà ảo thuật âm thanh. Cô giỡn vọt âm thanh, bẻ vặn tiết điệu, bỏ đứt nền nếp chân truyền trong lối hát. Chính ở cách phá thể, ở những quái chiêu táo bạo đó cô thành công rực rỡ“.
Chính vì thế, dù Thanh Thúy là một nữ trầm với đậm chất lưỡng tính, nhưng khi cô hát vẫn luôn có sự nữ tính.
Thanh Thúy cũng thường sử dụng airy voice (âm hơi) ở những đoạn nhả chữ hắt ra hay thủ thỉ tâm tình. Dù airy voice của cô không nhẹ nhàng, bay bổng, nhưng vẫn giữ được sự mượt mà, mềm mại và đong đầy cảm xúc.
Mỹ nhân có phong cách biểu diễn đặc biệt, khiến Trịnh Công Sơn mê đắm
Nhắc đến Thanh Thúy là nhớ về một mỹ nhân Bolero có lối trình diễn đặc biệt trên sân khấu, khiến ai cũng phải mê mẩn. Phong cách đó đã được giáo sư Nguyễn Văn Trung tả lại như sau:
“Thường một ca sĩ ra hát, bao giờ cũng cố gắng làm sao cho người khác để ý đến mình, không những chỉ bằng sự hiện diện trước mặt họ mà còn bằng những cử động, những cái nhìn, nụ cười chiếu thẳng vào khán giả mong làm hài lòng khán giả như mời gọi, quyến rũ.
Đứng trước máy vi âm, ca sĩ chú ý đến khán giả mong làm hài lòng khán giả bằng sự phô trương tất cả con người của mình.
Trái lại Thanh Thúy ra hát, dĩ nhiên cũng là hát cho khán giả, nhưng làm ra vẻ không chú ý đến khán giả, không tự giới thiệu, đi đến với khán giả bằng cử chỉ nụ cười, cái nhìn Thanh Thúy e lệ, kín đáo, bước ra rụt rè như con cò, tiến đến gần máy vi âm, mà không đưa mắt nhìn vào khán giả.
Lúc hát không làm một cử động nào, hai tay luôn luôn nắm lấy cây sắt của máy vi âm, mắt nhìn xuống đất hoặc nhìn ngang, thỉnh thoảng mới nhìn lên lướt qua rất nhanh khán giả mà không cố ý nhìn một ai.
Thanh Thúy không nhìn ai, để trở thành vật được nhìn của tất cả. Hình như đôi lúc Thanh Thúy lại nhắm mắt hay chỉ mở lim dim…”.
Từ lời bình của của giáo sư Trung, có thể thấy, Thanh Thúy thuộc hình mẫu ca sĩ giản dị và khép kín, không khoa trương, màu mè trên sân khấu, đúng nghĩa một danh ca theo lối truyền thống.
Đối với Thanh Thúy, ca hát là truyền tải thông điệp, cảm xúc của bài hát thông qua tiếng hát của mình, và cô sẽ làm tất cả để gói được vào đó, chứ không tính toán tới những cách thức biểu hiện khác bằng hình thể.
Thanh Thúy không giỏi diễn trên sân khấu, cô chỉ biết đứng một chỗ để hát, nhưng trong giọng hát ấy là cả một trời cảm xúc, văn hóa và trường biểu đạt khác.
Bởi vậy, Thanh Thúy chọn cho mình lối hát âm tính, rất hợp với tính cách và chất giọng nữ trầm của cô.
Dù sở hữu chất giọng nội lực, nhưng cô lại hát theo kiểu thu lại, cuốn vào sâu trong từng câu chữ, giống tầng sâu trong đất, để người nghe cảm nhận dần dần, chứ không bộc phát hết ra ngoài.
Lối hát này khiến Thanh Thúy càng trở nên liêu trai, ma mị hơn, và giúp cô truyền thải sâu sắc nỗi tâm sự, ẩn ức của cả một thế hệ, thời đại.
Giáo sư Trung cũng nói thêm: “Thái độ của Thanh Thúy là đi tới người khác không phải bằng cách cởi mở, đón tiếp, mời gọi với những cái nhìn, nụ cười cử chỉ mà bằng cách khép mình lại, thu mình vào bên trong, không xét đến người khác đang nhìn mình.
Thỉnh thoảng cô mỉm cười khi lời ý buồn cười, nhưng cũng như cười với mình thôi“.
Sự đối lập giữa giọng hát nam tính, mạnh mẽ với thân hình nhỏ bé, mảnh mai, nhan sắc tuyệt trần và cách hát khép mình, e lệ đã khiến Thanh Thúy trở thành cực phẩm trong làng ca sĩ, khiến người đàn ông nào cũng say đắm.
Chính giọng hát trầm buồn, khắc khoải và phong cách trình diễn ấy đã mê hoặc Trịnh Công Sơn khi ông nghe cô hát tại phòng trà Mỹ Cảnh. Khi ấy, Thanh Thúy vì một nỗi u uất nào đó đã vừa hát vừa khóc. Những dòng nước mắt đó đã gây ám ảnh tới cố nhạc sĩ họ Trịnh, khiến ông trở về Huế rồi mà vẫn còn day dứt.
Ông nói: “Những giọt nước mắt ấy như một cơn mưa nhỏ trên tâm hồn mỏng manh của tôi đã khiến tôi phải lùi xa hơn nữa về một cõi đời nào còn xa xôi hơn đã từng làm tôi nhỏ lệ“.
Và từ đó, Trịnh Công Sơn đã viết nên ca khúc Ướt mi, dành riêng cho Thanh Thúy:
“Buồn ơi trong đêm thâu
Ôm ấp giùm ta nhé
Người em thương mưa ngâu
Hay khóc sầu nhân thế
Tình ta đêm về có ấm
từng cơn mưa em chưa”
Trên thực tế, Thanh Thúy hát không rõ lời mà hay bị biến âm, giống Thanh Tuyền. Chẳng hạn /tình/ thành /từn/, /yêu/ thành /iu/, /tươi/ thành /tưi/, /ấm/ thành /ắm/, /ban/ thành /bang/…
Tuy nhiên, đây là lối hát do cô chọn lựa, để ra được chất riêng của dòng nhạc trữ tình quê hương Bolero và thổi rõ điệu hồn vùng miền vào đó.
Theo giáo sư Nguyễn Văn Trung, cách hát này của Thanh Thúy để “khán giả như thấy bị lôi kéo về một dĩ vãng xa xôi nhưng cũng rất gần gũi quen thuộc, một dĩ vãng dệt một hình ảnh rung động, cảm nghĩ gắn liền với lịch sử đất nước, với thôn quê, đồng ruộng, với sông Hương, núi Ngự, tiêu biểu cho những gì là dân tộc, cá tính địa phương về mặt tiêu cực: một nỗi buồn man mác, cô tịch, trầm lặng, vô định…
Thanh Thúy là hiện thân của nỗi buồn đó”.
Thanh Thúy hát Bolero theo lối pha trộn với Rumba, nên không sử dụng nhiều luyến láy, ngân nga, nỉ non giống Thanh Tuyền, Hương Lan, Như Quỳnh… mà dứt khoát, rành mạch. Bởi vậy, nhiều khán giả ngày nay sẽ không quen với cách hát của cô.
Thế nhưng, Thanh Thúy vẫn đưa đẩy câu chữ rất nức nở và có những luyến láy cần thiết, khiến cô trở nên nữ tính, sâu đậm hơn, giống như lời giáo sư Trung từng nói:
“Có lẽ những khán giả thích Thanh Thúy là thích vì vậy, không phải giải thích như một thân xác, nhưng như một người đàn bà, một thiếu nữ Việt, một cô gái Huế qua những cái rất “đàn bà”, rất “Việt Nam” và rất “Huế” của Thanh Thúy”.
Sưu tầm từ Soha